Thứ Tư, 24 tháng 2, 2010
Chín lí do cho công bố quốc tế
Thứ Ba, 23 tháng 2, 2010
Tiếng Anh bài 13: đạo văn, diễn giải, tóm lược và trích dẫn
Saturday, February 20, 2010
Tiếng Anh bài 13: đạo văn, diễn giải, tóm lược và trích dẫn
http://tuanvannguyen.blogspot.com/2010/02/tieng-anh-bai-13-ao-van-dien-giai-tom.html
1. Trích dẫn, như chúng ta biết, có nghĩa đơn giản là lấy nguyên văn của tác giả khác nhưng phải để trong ngoặc “ “ và phải ghi nhận nguồn. Một ví dụ trích dẫn là:
A WHO Expert Consultation states that “[…] overweight (≥ 25 kg/m2) corresponded to 31-39% (mean 35%) body fat in females and 18-27% (mean 22%) body fat in males. If these criteria for the percentage body fat for overweight and obesity are applied to the Asian populations, the corresponding BMIs can be calculcated with countru-specific equations” (WHO Expert Consutation, 2004).
Ở đây, chúng ta thấy tác giả để nguyên câu văn của WHO trong ngoặc kép, và khi đóng ngoặc kép thì ghi nguồn của đoạn văn.
Trong những bài báo khoa học, ít khi nào người ta trích dẫn, vì nó gây một cảm giác không mấy thoải mái. Trích dẫn nguyên văn có khi được xem là một hành động lười biếng, hay là một cách tỏ thái độ khiêu khích, mỉa mai. Nhưng tôi thấy trong các bài báo khoa học xã hội và nhân văn, các tác giả có xu hướng trích dẫn rất nhiều, có lẽ do “văn hóa” làm việc của họ. Mặc dù không có qui ước nào vế lượng trích dẫn bao nhiêu là thích hợp, nhưng hình như ai cũng đồng ý rằng một bài báo mà lượng trích dẫn hơn 10% được xem là quá mức.
2. Tóm lược là hình thức diễn tả lại ý tưởng chính của đoạn văn gốc bằng một đoạn văn rất cô đọng và rất chung chung, mà không hẳn dùng lại những chữ của tác giả gốc. Thông thường một đoạn văn tóm lược chỉ có 3 đến 7 câu văn.
Tóm lược cũng là một nghệ thuật, và có khi đòi hỏi người viết phải có một nội lực khá về ngữ vựng. Sau đây là vài chỉ dẫn để làm một tóm lược tốt. Trước hết là đọc bài báo. Kế đến là đọc lại bài báo, đánh dấu (gạch dòng) những ý tưởng quan trọng, dùng dấu hình tròn để đánh dầu những từ ngữ hay thuật ngữ quan trọng, và tìm điểm chính của bài báo. Chia bài báo làm nhiều đoạn về ý tưởng và viết một câu văn tóm lược cho từng đoạn. Kế tiếp là viết một đoạn văn tóm lược. Nên nhớ rằng trong đoạn văn tóm lược, tác giả có thể
Ví dụ như đoạn văn sau đây:
Students frequently overuse direct quotation in taking notes, and as a result they overuse quotations in the final [research] paper. Probably only about 10% of your final manuscript should appear as directly quoted matter. Therefore, you should strive to limit the amount of exact transcribing of source materials while taking notes. Lester, James D. Writing Research Papers. 2nd ed. (1976): 46-47.
có thể tóm lược như đoạn dưới đây:
Students should take just a few notes in direct quotation from sources to help minimize the amount of quoted material in a research paper (Lester 46-47).
Ở đây, tác giả vẫn giữ ý chính của đoạn văn gốc và có ghi nguồn, nhưng câu chữ đã được lám ngắn gọn lại, bỏ bớt những chi tiết như 10%. Đây là cách tóm lược hợp lí, không phải đạo văn.
3. Đạo văn: Hội giáo sư đại học Mĩ (American Association of University Professors) định nghĩa đạo văn (plagiarism) là lấy ý tưởng, phương pháp, hay chữ của người khác làm của mình, mà không ghi nhận nguồn gốc và tác giả (nguyên văn: "taking over the ideas, methods, or written words of another, without acknowledgment and with the intention that they be taken as the work of the deceiver.") Đạo văn là một “tội phạm” trong khoa học, một lỗi không thể chấp nhận được. Đã có rất nhiều trường hợp mà những nhà khoa học, sinh viên, nghiên cứu sinh, v.v… bị tiêu tan sự nghiệp chỉ vì đạo văn.
Đạo văn thường xuất hiện dưới nhiều hình thức, chứ không phải chỉ trong bài báo khoa học hay sách vở. Chẳng hạn như một bác sĩ trình bày báo cáo hay bài giảng bằng powerpoint ở một hội nghị, seminar, symposium, v.v… có sử dụng ý tưởng, số liệu, hình ảnh, câu văn của người khác mà không ghi rõ nguồn thì vẫn có thể xem là một hình thức đạo văn.
Đây là một đoạn văn trong cuốn Lizzie Borden: A Case Book of Family and Crime in the 1890s của Joyce Williams và đồng tác giả (trang 1):
The rise of industry, the growth of cities, and the expansion of the population were the three great developments of late nineteenth century American history. As new, larger, steam-powered factories became a feature of the American landscape in the East, they transformed farm hands into industrial laborers, and provided jobs for a rising tide of immigrants. With industry came urbanization the growth of large cities (like Fall River, Massachusetts, where the Bordens lived) which became the centers of production as well as of commerce and trade.
và thử đọc đoạn văn sau đây:
The increase of industry, the growth of cities, and the explosion of the population were three large factors of nineteenth century America. As steam-driven companies became more visible in the eastern part of the country, they changed farm hands into factory workers and provided jobs for the large wave of immigrants. With industry came the growth of large cities like Fall River where the Bordens lived which turned into centers of commerce and trade as well as production.
Đoạn văn này được xem là đạo văn. Tại sao? Lí do thứ nhất là tác giả chỉ thay đổi vài chữ và vài câu, thay đổi thứ tự của đoạn văn gốc. Lí do thứ hai là tác giả không ghi nguồn gốc của ý tưởng.
Để tránh đạo văn, cần phải đề rõ nguồn của ý tưởng, dữ liệu của người khác trong bài báo khoa học của mình. Một cách tránh đạo văn là học cách tóm lược (như trình bày trên) và diễn giải (paraphrase sẽ trình bày dưới đây).
4. Diễn giải: Theo cách hiểu chung thì diễn giải có nghĩa là một cách viết lại đoạn văn gốc của người khác với chữ của chính mình (nhưng ý tưởng thì vẫn mượn từ tác giả khác) và nhất định phải ghi nguồn.
Trong báo cáo khoa học, kĩ năng diễn giải rất quan trọng, vì nó tạo cơ hội cho các tác giả đang học tiếng Anh một cách học tiếng Anh thực tế nhất và hữu hiệu nhất. Kinh nghiệm của tôi cho thấy cách diễn giải tốt nhất là đọc đi đọc lại đoạn văn gốc cho đến khi hiểu đầy đủ ý nghĩa của đoạn văn, sau đó đặt đoạn văn gốc qua một bên, và viết lại đoạn văn với từ và cách trình bày của chính mình. Nếu cần, viết vài chữ ở phía dưới đoạn văn mới viết để tự nhắc nhở mình nên sử dụng hay thay đổi câu văn này như thế nào. Một vài điều quan trọng cần nhớ khi diễn giải câu văn của người khác như sau:
Thứ nhất là giữ đúng nghĩa của bản gốc. Nên nhớ rằng chúng ta chỉ diễn giải lại, nên không được thay đổi những mối quan hệ trong bản gốc và ý nghĩa mà tác giả muốn nói.
Thứ hai là dùng từ đồng nghĩa (synonym). Điều này đòi hỏi người viết phải có một vốn ngữ vựng khá để có thể thay đổi chữ của người khác mà vẫn không thay đổi ý nghĩa gốc. Đối với những thuật ngữ thì cách an toàn nhất là không nên thay đổi, vì làm như thế rất ư là ngô nghê!
Thứ ba là thay đổi văn phạm. Cách tốt nhất là cắt câu văn dài thành một vài câu văn ngắn, hoặc gép vài câu văn quá ngắn thành một câu văn cô đọng hơn. Cách thứ hai là thay đổi thì active thành thì passive cũng là một hình thức rất hữu hiệu.
Thứ tư là (nếu được) thay đổi thứ tự của thông tin. Đôi khi các tác giả viết văn cũng rất khó hiểu vì họ trình bày nhiều thông tin làm loãng ý chính, và đây chính là cơ hội lí tưởng để mình diễn giải thì ý của mình bẳng cách sắp xếp lại ý tưởng và thông tin một cách logic hơn.
Thứ năm là để ý đến thái độ của tác giả đến đề tài. Đôi khi tác giả để lộ thái độ và cảm tính với đề tài (qua những từ như certain, uncertain, critical, striking, remarkable, wonderful, v.v…) và viết lại theo hình thức trung hòa hơn. Trong khoa học văn chương cần phải … lạnh lùng, tránh từ ngữ cảm tính.
Quay lại câu văn gốc trên,
The rise of industry, the growth of cities, and the expansion of the population were the three great developments of late nineteenth century American history. As new, larger, steam-powered factories became a feature of the American landscape in the East, they transformed farm hands into industrial laborers, and provided jobs for a rising tide of immigrants. With industry came urbanization the growth of large cities (like Fall River, Massachusetts, where the Bordens lived) which became the centers of production as well as of commerce and trade.
nếu tác giả viết:
Fall River, where the Borden family lived, was typical of northeastern industrial cities of the nineteenth century. Steam-powered production had shifted labor from agriculture to manufacturing, and as immigrants arrived in the US, they found work in these new factories. As a result, populations grew, and large urban areas arose. Fall River was one of these manufacturing and commercial centers (Williams 1).
thì sẽ không xem là đạo văn mà là diễn tả lại ý chính của tác giả gốc. Đây là một cách diễn giải hợp lí, chấp nhận được, bởi vì tác giả giữ thông tin gốc qua cách dùng chữ, và cho biết nguồn gốc của ý tưởng.
Như tôi nói ở trên, diễn giải một đoạn văn ngoài kĩ năng văn phạm, cú pháp, còn đòi hỏi một vốn ngữ vựng dồi dào. Ngữ vựng cho phép chúng ta dùng từ khác với từ gốc. Một số từ có thể thay thế mà có thể không làm thay đổi ý nghĩa gốc như sau:
Từ chỉ không gian: above, below, here, there, v.v...
Từ chỉ thời gian: after, before, currently, at present, during, earlier, later, v.v...
Từ chỉ ví dụ: for example, for instance, v.v...
Từ chỉ thêm nữa: additionally, in addition, also, moreover, furthermore, equally important, v.v...
Từ chỉ tương đương: also, likewise, in the same way, similarly, v.v...
Từ chỉ ngoại lệ: but, yet, however, nonetheless, on the other hand, on the contrary, v.v...
Từ chỉ loạt: first, second, third, next, then, v.v...
Từ nhấn mạnh: indeed, in fact, of course, v.v...
Từ chỉ nguyên nhân và hệ quả: accordingly, consequently, as a result, as a consequence, therefore, thus, v.v...
Từ kết luận: finally, in conclusion, in summary, on the whole, in the end, v.v...
Đạo văn trong khoa học được nhắc đến rất nhiều lần, và một phần không nhỏ có liên quan đến sinh viên mà tiếng Anh không phải là tiếng mẹ đẻ. Đã có nhiều trường hợp luận án bị thu hồi vì vấn đề đạo văn. Khi người ta làm nghiên cứu ở sinh viên Mã Lai đang học tại Úc thì phát hiện rằng họ không cố ý đạo văn, nhưng chỉ vì họ không phân biệt được khác biệt giữa đạo văn, diễn giải, và tóm lược. Tôi hi vọng bài này sẽ giúp một phần cho “phe ta” phân biệt được 3 hình thức trên và tránh phạm phải lỗi lầm đáng tiếc.
Viết bài báo khoa học không đơn giản như nhiều người tưởng. Không biết các ngành khác thì sao, nhưng trong lĩnh vực y khoa thì viết một bài báo khoa học 10 trang thường kéo dài khoảng 3 tháng. Nói như vậy để các bạn mới vào “nghề” không nên đánh giá thấp quá trình và kĩ năng viết một bài báo khoa học.
NVT
TB: M. Roig có một bài rất đầy đủ về đạo văn ở đây:
http://facpub.stjohns.edu/~roigm/plagiarism/Index.html
Chủ Nhật, 14 tháng 2, 2010
Những ngộ nhận về học vị tiến sĩ
Tuesday, September 22, 2009
Những ngộ nhận về học vị tiến sĩ
Hai tuần qua, dù bận đi công tác ở bên Mĩ, tôi vẫn thỉnh thoảng vào mạng đọc báo để theo dõi tình hình trong nước, và thấy nhiều sự kiện mà tôi rất muốn bình luận nhưng vì quá bận rộn nên đành “lực bất tòng tâm” do không có thì giờ. Hôm nay, việc phó hội cũng đã xong xuôi, nên lại có thì giờ để góp nhặt vài lời để gọi là “mua vui cũng được một vài trống canh”.
Hôm nọ, đọc một tin rất lạ mà thoạt đầu tôi mỉm cười một mình vì nghĩ rằng phóng viên có trí tưởng tượng phong phú quá: đó là bản tin cho biết “Hà Nội mong 100% cán bộ Thành ủy ‘quản’ là tiến sĩ”. Nhưng tôi nghĩ sai: phóng viên tường thật hoàn toàn chính xác về chủ trương của chính quyền và đảng ủy Hà Nội, vì hôm sau có một quan chức của Sở nội vụ Hà Nội lí giải rằng cần phải “Có bằng tiến sĩ mới đột phá tư duy”. Vị quan chức này, với danh xưng tiến sĩ, chính là tác giả của “Chiến lược cán bộ, công chức khối chính quyền thành phố”.
Nếu xem chủ trương nâng cấp 100% cán bộ diện thành ủy có bằng tiến sĩ thì quả thật ông tiến sĩ này có tư duy đột phá. Nhưng chữ “đột phá” ở đây phải hiểu là phá hoại cái ý nghĩa của học vị tiến sĩ một cách đột ngột. Để hiểu cách diễn giải đó, thiết tưởng tôi có nhiệm vụ giải thích mục tiêu và ý nghĩa của học vị tiến sĩ.
Học tiến sĩ để làm gì ?
Học vị tiến sĩ thường dành cho những người muốn theo đuổi sự nghiệp nghiên cứu khoa học. Để dấn thân vào sự nghiệp nghiên cứu khoa học, học vị tiến sĩ là một “giấy thông hành” quốc tế, cũng giống như muốn hành nghề kĩ sư thì phải có bằng kĩ sư. Cố nhiên cũng có một số người tham gia nghiên cứu khoa học dù họ không có học vị tiến sĩ, nhưng đây là những trường hợp ngoại lệ. Do đó, trong quá trình đào tạo tiến sĩ, nghiên cứu sinh phải làm quen với những kĩ năng cơ bản như phát hiện vấn đề, cách đặt giả thuyết, thiết kế nghiên cứu, thu thập dữ liệu (kể cả đo lường), phân tích và diễn giải kết quả nghiên cứu, v.v… Đây là những kĩ năng mà bất cứ một nghiên cứu sinh tiến sĩ nào cũng phải có sau khi xong chương trình đào tạo.
Do đó, để có được học vị tiến sĩ, thí sinh phải làm nghiên cứu khoa học một cách nghiêm chỉnh. Hai chữ “nghiêm chỉnh” ở đây rất quan trọng trong trường hợp Việt Nam, bởi vì rất rất nhiều nghiên cứu khoa học ở trong nước chẳng những không nghiêm chỉnh mà còn phạm quá nhiều sai sót. Điều này cũng có nghĩa là nếu muốn theo đuổi sự nghiệp quản trị kinh doanh, quản trị hành chính, thì học vị tiến sĩ không cần thiết, và thí sinh không nên tốn thì giờ để đạt được học vị này.
Học vị tiến sĩ dành cho những người muốn theo đuổi sự nghiệp khoa bảng. Học vị tiến sĩ là một “chứng từ” để theo đuổi sự nghiệp khoa bảng (academic career). “Khoa bảng” ở đây được hiểu là giảng dạy đại học và nghiên cứu khoa học. Cố nhiên, ở nhiều đại học phương Tây, vẫn có người có thể trở thành giáo sư dù không có học vị tiến sĩ, nhưng cơ hội tiến thân trong các nấc thang khoa bảng ngày nay cho những cá nhân như thế không mấy cao. Nhiều trường đại học lớn trên thế giới đòi hỏi các giảng viên và giáo sư hay các nhà nghiên cứu phải có học vị tiến sĩ. Tại sao? Tại vì họ muốn đảm bảo trường đại học có đầy đủ chuyên gia để giảng dạy các môn học cấp cao và bắt buộc các chuyên gia này phải làm nghiên cứu khoa học. Phần lớn giáo sư đại học có học vị tiến sĩ, nhưng không phải ai có bằng tiến sĩ đều có thể trở thành giáo sư.
Do đó, nếu thí sinh muốn theo đuổi sự nghiệp quản trị doanh nghiệp, kĩ nghệ và khoa học (như muốn làm giám đốc doanh nghiệp, giám đốc các cơ sở khoa học) hay các chức vụ hành chính, hay các chức vụ mang tính quản lí trong hệ thống chính phủ thì thí sinh không nên theo học chương trình tiến sĩ, mà nên theo học chương trình thạc sĩ quản trị kinh doanh hay quản trị hành chính (MBA – Master of Business Administration). Tôi biết ngày nay có đại học đưa ra chương trình huấn luyện Tiến sĩ quản trị hành chính (Doctor of Business Administration), nhưng mục tiêu vẫn là đào tạo nhà nghiên cứu và giáo sư. Xin nhắc lại: cốt lõi của học vị tiến sĩ, và cũng là khía cạnh dùng để phân biệt học vị tiến sĩ với các học vị đại học khác, là nghiên cứu khoa học, không phải quản trị.
Những ngộ nhận về tiến sĩ
Do đó, chủ trương hướng tiến sĩ hóa cán bộ hành chính thể hiện một sự hiểu lầm về mục tiêu đào tạo tiến sĩ. Chủ trương này sẽ dẫn đến tình trạng có nhiều người tìm cách theo học để lấy được một học vị tiến sĩ, nhưng động cơ của việc theo học thì lại quá sai lầm. Những sai lầm về động cơ theo học tiến sĩ, theo tôi, có thể tóm lược trong những ngộ nhận phổ biến sau đây:
Ngộ nhận 1: nhiều người hiểu lầm rằng học vị tiến sĩ sẽ tự động đem lại uy danh cho cá nhân. Hầu hết các thí sinh đã đạt được văn bằng tiến sĩ đều cảm thấy tự hào về nỗ lực và kết quả của việc phấn đấu trong học hành nghiên cứu. Tuy nhiên, thí sinh phải hiểu rằng một khi tốt nghiệp tiến sĩ, thí sinh có thể làm việc với nhiều nhà khoa học khác cũng có bằng tiến sĩ. Học vị tiến sĩ mới chỉ là bước đầu vào nghiên cứu khoa học, là một minh chứng rằng người có bằng đó “trưởng thành” trong khoa học, chứ nó (văn bằng tiến sĩ) chẳng đem lại uy danh cho người có học vị nếu người đó không có công trình nghiên cứu nào có giá trị.
Ngộ nhận 2: ý kiến của một cá nhân được nâng cao chỉ vì cá nhân đó có văn bằng tiến sĩ. Nhiều người tin rằng một khi họ có văn bằng tiến sĩ trong tay, công chúng sẽ tự nhiên kính trọng ý kiến của họ. Nhưng niềm tin này chỉ là hoang tưởng. Người có học vị tiến sĩ có thể am hiểu và uyên bác về một lĩnh vực chuyên môn hẹp nào đó, nhưng không phải là chuyên gia của mọi vấn đề khác. Sự kính trọng phải được chứng minh qua hành động và bản lĩnh của người phát biểu, chứ không tự động mà có được qua danh xưng “tiến sĩ”.
Ngộ nhận 3: học vị tiến sĩ là mục tiêu sau cùng trong học hành, nghiên cứu. Học vị tiến sĩ chuẩn bị thí sinh vào sự nghiệp nghiên cứu. Nếu thí sinh chỉ muốn có mảnh giấy để treo trên tường thì không nên theo đuổi học vị tiến sĩ. Sau khi tốt nghiệp tiến sĩ, thí sinh có cơ hội để so sánh thành quả của mình với các nhà khoa học khác. Thí sinh sẽ nhận thức rằng cái được “tính sổ” không phải là danh xưng hay học vị tiến sĩ, mà là nghiên cứu khoa học do chính thí sinh tiến hành và hoàn tất.
Ngộ nhận 4: học tiến sĩ để gây ấn tượng trong gia đình và bạn bè. Người thân trong gia đình và bạn bè thí sinh có lẽ rất hồ hởi và tự hào khi thí sinh vào học chương trình tiến sĩ, bởi vì họ nghĩ thí sinh sẽ trở thành một ông nghè, một “doctor” trong tương lai. Nhưng văn bằng tiến sĩ chỉ là giấy thông hành cho nghiên cứu, chứ không phải để lấy le với người thân, bạn bè hay với xã hội. Không phải lúc nào cũng đòi người khác phải gọi mình là ông / bà “tiến sĩ”.
Ngộ nhận 5: học vị tiến sĩ là cái cớ để thử trí thông minh. Nhiều người nghĩ rằng học tiến sĩ là một thách thức và họ muốn chơi trò thách thức xem tri thức của mình cỡ nào. Rất tiếc, quan điểm này sai, bởi vì chương trình huấn luyện tiến sĩ không phải để thí sinh cân não hay để thử khả năng tri thức. Ngoại trừ thí sinh dành trọn thì giờ và dấn thân vào học hành để đỗ đạt, thí sinh sẽ không thể nào có được văn bằng tiến sĩ chỉ vì mình “thông minh”. Như nói trên, thí sinh phải làm việc nhiều giờ trong ngày, phải có khi thức đêm trong phòng thí nghiệm hay thư viện, phải chuẩn bị đương đầu với những thất bại, phải chuẩn bị động não để học cái mới và suy nghĩ cái mới.
Ngộ nhận 6: học tiến sĩ để kiếm nhiều tiền. Thí sinh tốt nghiệp tiến sĩ thực ra không có lương bổng cao hơn các thí sinh với bằng cử nhân hay người công nhân bình thường trong hãng xưởng. Xin nhắc lại: học tiến sĩ là để trở thành nhà nghiên cứu, nhà khoa học, và cái quan tâm đầu tiên của nhà khoa học là sự thật, chứ không phải sự giàu có về tiền bạc. Tất nhiên, có nhiều khi sự thật và khám phá cũng đem lại một nguồn tài chính lớn cho nhà nghiên cứu. Nhưng nói chung, đó không phải là mục tiêu để theo học tiến sĩ.
Ngộ nhận 7: học tiến sĩ là một lựa chọn tốt nhất. Cống hiến cho xã hội có nhiều cách và cuộc đời có nhiều lựa chọn, và học vị tiến sĩ chỉ là một trong số hàng trăm lựa chọn đó. Có lẽ nhiều người sẽ ngạc nhiên khi đọc phát biểu này, nhưng đó là một thực tế. Thật vậy, đối với nhiều thí sinh, học vị tiến sĩ có thể là một lựa chọn sai lầm! Thí sinh phải tự hỏi mình muốn làm người lãnh đạo trong những người có văn bằng thạc sĩ, hay là làm một nhà nghiên cứu tầm thường. Thí sinh phải biết và quyết định mình muốn gì, và nghề nghiệp nào sẽ kích khích mình nhiều nhất hay đem lại hạnh phúc cho mình nhất.
Đột phá tư duy ?
Quay lại câu nói bất hủ (“Có bằng tiến sĩ mới đột phá tư duy”) tôi muốn trích lại lời thuật của Gs Đặng Phong (trong trang blog của Huy Đức) như sau: “Một lần, ông Viện trưởng Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô đến thăm xí nghiệp đánh cá Vũng Tàu-Côn Đảo, một điển hình đổi mới lúc đó. Xí nghiệp này khi sắp bị phá sản đành phải mời một ông chăn vịt vốn là người thạo nghề đánh cá hồi trước 1975 làm giám đốc. Ông đòi được toàn quyền ‘khoán’ cho xã viên và xí nghiệp trở nên làm ăn rất hiệu quả.” Gs Đặng Phong kể tiếp: “Sau khi thăm và hỏi chuyện ở Xí nghiệp, ông Viện trưởng Viện Hàn Lâm Liên Xô hỏi các cán bộ ở trường Quản Lý Trung Ương: ‘Các anh có biết bí quyết thành công của ông giám đốc là gì không?’ Và, ông Viện trưởng đáp: ‘Đồng chí ấy thành công vì đồng chí ấy chưa được học qua lý luận’. Đổi mới trong giai đoạn ấy chủ yếu đều bắt đầu từ những nhà lãnh đạo địa phương chưa qua các trường lớp chính quy lý luận.”
Câu chuyện đơn giản trên cho thấy không phải có bằng tiến sĩ mới có tư duy đột phá. Thật ra, những gì gọi là “đột phá” đều phần lớn xuất phát từ những người không bị ràng buộc bởi những lí thuyết, không có bằng cấp đại học (chứ chưa nói đến học vị tiến sĩ). Cứ nhìn lại lịch sử phát triển kinh tế ở các nước phương Tây thì rõ: có bao nhiêu nhà lãnh đạo chính trị có bằng tiến sĩ đâu. Ở nước Úc tôi đang định cư, cựu thủ tướng Paul Keating được xem là một thủ tướng tài ba, một người có tầm nhìn xa và đột phá trong chính sách ngoại giao cũng như kinh tế. Ông Keating được xem là một thủ tướng giỏi, không phải vì ông có bằng cấp cao, mà vì ông biết dùng người có tài. Thật vậy, ông Keating thậm chí chưa tốt nghiệp trung học, nhưng người cố vấn và viết diễn văn cho ông là một chuyên gia có bằng tiến sĩ. Dưới “trướng” của Keating cũng là những cố vấn giỏi, nhưng chỉ có một số rất ít trong nhóm cố vấn này có bằng tiến sĩ.
Do đó, xin đừng sùng bái văn bằng tiến sĩ như là một chứng từ cho sự đột phá tư duy. Thật ra, ngược lại thì đúng hơn: phần lớn tiến sĩ không có tư duy đột phá. Điều này đúng, bởi vì phần lớn (có thể 99%) các nhà khoa học với học vị tiến sĩ chỉ làm việc trong những mô thức (paradigm) thông thường, và mô thức này thường được định hướng bởi những nhà khoa học tiền phong khác.
Đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam
Các trường đại học Âu châu đã từng đào tạo và cấp học vị tiến sĩ về thần học, luật học, y học trong nhiều thế kỉ qua. Nhưng học vị tiến sĩ trong các ngành khoa học tự nhiên và khoa học thực nghiệm chỉ mới xuất hiện từ đầu thế kỉ 19. Đến giữa thế kỉ 19, học vị tiến sĩ được du nhập vào Mĩ. Năm 1861, Đại học Yale trở thành trường đại học Mĩ đầu tiên cấp học vị tiến sĩ cho sinh viên. Các đại học Anh cũng theo trào lưu và bắt đầu cấp học vị tiến sĩ từ năm 1919. Từ đó, học vị tiến sĩ trở nên phổ biến trong hầu hết các đại học trên thế giới. Ở Mĩ, chỉ tính riêng các bộ môn y sinh học, số lượng tiến sĩ tốt nghiệp hàng năm đã tăng từ 5400 năm 1987 đến 7700 năm 1995. Ở Việt Nam, có 144 trung tâm đào tạo và trường đại học cấp học vị tiến sĩ, và mỗi năm các trung tâm này thu nhận vào khoảng 1000 nghiên cứu sinh tiến sĩ.
Theo thống kê thì hiện nay VN có khoảng 6600 giáo sư và phó giáo sư. Vẫn theo thống kê, trong số 48000 giảng viên đại học, có 13% hay 6250 người có học vị tiến sĩ. Như vậy, có lẽ cả nước có khoảng 12000 tiến sĩ (kể cả những “phó tiến sĩ” sau một đêm thành “tiến sĩ”).
Nhưng trình độ của các tiến sĩ này ra sao? Trong bài Cả nước có bao nhiêu tiến sĩ thật, tác giả phản ảnh nhiều khiếm khuyết trong việc đào tạo tiến sĩ ở trong nước. Những lem nhem về đạo văn, đánh tráo luận văn, mua luận văn, nhầm lẫn giữa nghiên cứu khoa học và dịch vụ, giải pháp, v.v… Thật vậy, theo bài báo này, trong số 97 đề tài nghiên cứu tiến sĩ ở Trường ĐH Kinh tế TPHCM, thì có đến 57 đề tài về giải pháp, không xứng tầm luận án tiến sĩ. Chỉ cần đọc qua vài luận án đã được cấp bằng tiến sĩ, có lẽ chúng ta không khỏi mỉm cười:
"Nhận thức của công chức hành chính về việc sắp xếp lại bộ máy của cơ quan chuyên môn trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố”.
''Nhận thức của thanh niên nông thôn về chất lượng cuộc sống gia đình hiện nay''.
“Nghiên cứu nhu cầu điện ảnh của sinh viên”
“Phát huy vai trò của tri thức ngành y tế Việt Nam trong công cuộc đổi mới”.
“Lịch sử phát triển giáo dục – đào tạo ở An giang (1975 – 2000)
Đó là chưa nói đến sự lợi dụng chức quyền để có bằng tiến sĩ, mua bán bằng cấp, nghiên cứu ma (giả tạo hay thay đổi số liệu), nghiên cứu không đạt tiêu chuẩn khoa học hay sai phương pháp, v.v… được đề cập đến với nhiều bức xúc. Trong thực tế, rất nhiều người có học vị này chưa chứng tỏ mình là một nhà khoa học chuyên nghiệp xứng đáng với học vị tiến sĩ, vì họ được cấp học vị qua những cống hiến mang tính hành chính và quản lí hơn là những cống hiến mang tính khoa học và hàn lâm mà một luận án tiến sĩ đòi hỏi. Do đó có người mang bằng tiến sĩ từ nước ta sang Thái Lan để học nhưng chỉ được công nhận tương đương bằng y tá! Đã có người khẳng định rằng có nhiều luận án tiến sĩ ở trong nước không đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế của một luận án tiến sĩ. Những vấn đề về đào tạo tiến sĩ đã được nêu lên nhiều lần, nhưng hình như vẫn chưa có ai đề ra những tiêu chuẩn cụ thể cho một học vị tiến sĩ là gì.
Trong bối cảnh như thế mà có quan chức nói đến chuyện có bằng tiến sĩ để có tư duy đột phá!
Như nói trên, học vị tiến sĩ là “giấy thông hành” để làm nghiên cứu khoa học. Sản phẩm quan trọng của nghiên cứu khoa học là bài báo khoa học được công bố trên các tập san quốc tế. Nhưng với 6600 giáo sư và phó giáo sư, cộng với 6250 tiến sĩ, đáng lẽ Việt Nam phải công bố khoảng (ít nhất là) 6000 bài báo khoa học. Nhưng hiện nay, mỗi năm, Việt Nam công bố được chỉ khoảng 1000 bài báo khoa học. Con số này thấp nhất so với các nước khác trong vùng Đông Nam Á, và chỉ bằng 1/5 Thái Lan và 1/10 Singapore.
Tại sao năng suất khoa học của Việt Nam quá tồi trong khi có nhiều “sĩ sư” như thế? Hiện nay, trong số GS/PGS ở các đại học chỉ có khoảng 1/3 (chính xác là 35%) tham gia giảng dạy đại học. Phần 65% còn lại là các quan chức trong các bộ và sở. Có lẽ con số tiến sĩ không làm nghiên cứu khoa học cũng khoảng 60-65%. Như vậy, có thể nói rằng Việt Nam đã và đang lãng phí nhân lực khoa học ở qui mô rất lớn.
Đó cũng chính là lời giải thích tại sao các quan chức trong các bộ ở Việt Nam, nhất là Hà Nội, thường có danh thiếp chi chít với những học vị tiến sĩ. Thoạt đầu tôi ngạc nhiên và thấy khó hiểu là tại sao các bộ, thậm chí sở, có quá nhiều quan chức với văn bằng tiến sĩ như thế, vì ở nước ngoài, hiếm thấy tiến sĩ làm việc trong các cơ quan hành chính. Nhưng nay thì tôi đã hiểu tại sao: vì Nhà nước muốn có những con số ấn tượng về phần trăm tiến sĩ trong đội ngũ cán bộ. Một cách làm đẹp con số thống kê.
Chủ trương tiến sĩ hóa cán bộ hành chính là một cách biến học vị tiến sĩ thành một loại giấy thông hành, một chứng từ, một tiêu chuẩn để tiến thân trong sự nghiệp quản trị hành chính. Chẳng hiểu từ đâu mà có qui định lạ lùng như phải là tiến sĩ mới được làm trưởng khoa trong một đại học, hay được đề bạt lên một chức vụ nào đó trong hệ thống quản trị hành chính. Chính vì qui định này mà không ít trường hợp, người ta đề bạt (hay nói thẳng ra là xếp đặt) người vào vị trí nào đó, rồi tìm cách hợp thức hóa cho người đó bằng cách cấp bằng tiến sĩ!
Việc hợp thức hóa đó bất chấp tiêu chuẩn khoa bảng và ý nghĩa của học vị tiến sĩ thể hiện một sự phá hoại các chuẩn mực giáo dục đại học.
NVT
Bàn về tiêu chuẩn đào tạo tiến sĩ
Wednesday, October 10, 2007
Bàn về tiêu chuẩn đào tạo tiến sĩ
http://tuanvannguyen.blogspot.com/2007/10/bn-v-tiu-chun-o-to-tin-s.html
Báo mạng Diễn Đàn (http://www.diendan.org/viet-nam/toan-bo-mot-bai-phong-van/) mới đây đăng nguyên văn bài trả lời phỏng vấn của giáo sư Bùi Trọng Liễu về các vấn đề giáo dục và nghiên cứu khoa học. Bài phỏng vấn tương đối dài, và nhiều điều giáo sư cũng đã phát biểu vài lần trước đây (như vấn nạn tiến sĩ giấy, viện sĩ dỏm, tổ chức đại học, cách đề bạt chức danh giáo sư, v.v…) và ở trong nước người ta cũng nói nhiều trong thời gian gần đây. Có lẽ chính vì thế mà báo Tia Sáng cắt bỏ một số đoạn và làm cho giáo sư phật lòng. Thế là tờ báo mạng đăng nguyên bài. Kể ra vậy cũng hay, báo mạng có lợi thế là có thể đăng bất cứ bài nào, bất kể dài cỡ nào, và như thế cho người đọc một nội dung đầy đủ hơn.
Đọc qua bài phỏng vấn giáo sư Bùi Trọng Liễu tôi thấy rất đồng tình với giáo sư về nhiều vấn đề (nhất là đề nghị xây dựng đại học mới dựa vào Viện khoa học và công nghệ hiện nay), nhưng tôi cũng thấy có vài ý kiến ông phát biểu cần bàn lại, vì không đúng với thực tế hay có thể sai. Ở đây, tôi chỉ xoay quanh ba vấn đề chính: đó là ý nghĩa của “postdoc”, vấn đề đánh giá tập san nghiên cứu khoa học, và thời gian công bố ấn phẩm khoa học.
"Postdoc" là gì? Xin nói ngay rằng, tôi từng là một postdoc trong đầu thập niên 1990s, nên tôi có kinh nghiệm thực tế, và nay nhìn lại quãng đời mình cũng có thể biết đôi ba điều về ý nghĩa của postdoc. QUay lại ý kiến của bác BTL: khi bàn đến những hiểu sai mà giáo sư nói là ở trong nước người ta dịch postdoc thành “siêu tiến sĩ”, bác Liễu cho rằng postdoc là “chỉ là vị trí công việc tạm thời (học bổng, hợp đồng lâm thời) cho những tiến sĩ chưa tìm được việc làm trong chính ngạch, vv.” Có 2 vấn đề: thứ nhất, theo dõi báo chí trong nước hàng ngày trong suốt 15 năm qua tôi chưa bao giờ thấy ai sử dùng cụm từ “siêu tiến sĩ” cả; thứ hai, trong thực tế, postdoc không phải là những người chưa tìm được việc “chính ngạch”, mà là những người còn trong giai đoạn thực tập nghiên cứu, và những người này sử dụng thời gian làm postdoc để quyết định theo đuổi sự nghiệp khoa bảng, hay cơ hội tự khẳng định hướng nghiên cứu riêng của mình, và phấn đấu để trở thành một nhà nghiên cứu độc lập. Đó chính là mục tiêu của chương trình postdoc, và cũng chính vì thế mà ở Mĩ người gọi là “postdoc fellowship”.
Trong các bộ môn khoa học thực nghiệm, có không ít người phải tiêu ra cả 5 năm trời làm nghiên cứu postdoc (hậu tiến sĩ) để có thể tự khẳng định mình và chuẩn bị cho một sự nghiệp nghiên cứu khoa học độc lập. Xin làm postdoc cũng rất khó khăn, chứ không đơn giản xong tiến sĩ là có ngay một vị trí postdoc. Ở nhiều trường lớn bên Mĩ, có hàng trăm (có khi cả ngàn) tiến sĩ xin chỉ một postdoc!
Chỉ có khoảng phân nửa tiến sĩ chọn con đường tiến sĩ à hậu tiến sĩ à giáo sư, và trong số này chỉ có một phần ba là tiến tới thang bậc giáo sư. Phân nửa thì quyết định tham gia nghiên cứu trong các công ti kĩ nghệ hay chính phủ mà không qua huấn luyện postdoc. Một số ngành có nhu cầu cao, tiến sĩ không cần phải qua giai đoạn postdoc để có thể trở thành giáo sư.
Bàn về cách thẩm định năng suất một nhà khoa học, bác BTL phát biểu rằng cách đánh giá công trình khoa học hay chất lượng tạp san khoa học theo các phương pháp định lượng chỉ là tương đối và chỉ áp dụng cho “tổng thể của một nước”, chứ không phải cho một nhà khoa học riêng lẻ [1]. Ở một đoạn khác, bác viết: “Mặt khác cũng không nên ám ảnh bởi bảng xếp hạng cao thấp của các tập san quốc tế, nó cũng tương đối như bảng xếp hạng các trường đại học […] ”. Xin phép không đồng ý với nhận định trên và tôi sẽ giải thích tại sao.
Cách xếp hạng các tập san khoa học quốc tế hiện nay chủ yếu dựa vào chỉ số ảnh hưởng (impact factor) mà tôi đã bàn cụ thể trước đây trên Tia Sáng và Tạp chí Hoạt động Khoa học. Đúng là cách xếp hạng này chỉ mang tính tương đối, và ngay cả phương pháp xếp hạng cũng không hẳn hoàn chỉnh, còn có nhiều vấn đề, nhưng trong thực tế không có cách nào tốt hơn là đánh giá chất lượng một tập san qua chỉ số ảnh hưởng, vì chỉ số này nó nói lên được uy tín và chất lượng của một tập san. Đã có hàng trăm phê phán về chỉ số này, nhưng người ta vẫn chưa tìm ra một chỉ số nào tốt hơn. Hơn nữa, đã có hàng chục nghiên cứu cho thấy chỉ số ảnh hưởng quả thật phản ảnh chất lượng của tập san.
Khiếm khuyết của cách xếp hạng là một vấn đề, nhưng không thể dựa vào khiếm khuyết này mà không xếp hạng gì cả. Chẳng lẽ vì tính tương đối mà xem các tập san có giá trị như nhau? Chẳng lẽ vì tính tương đối mà xem tập san Bulletin of the American Mathematical Society, Annals of Mathematics hay Acta Mathematica tương đương với các tập san như Acta Mathematica Scientia, Russian Academy of Scines Sbornik Mathematics hay Journal of Global Optimization? Tương tự, cũng không thể so sánh một tập san như Medical Journal of Australia với Journal of the American Medical Association (JAMA) được, vì uy tín và tầm ảnh hưởng của hai tập san này rất khác nhau. Do đó, chỉ số ảnh hưởng của tập san rất cần thiết để các nhà quản lí khoa học đánh giá năng suất khoa học của cá nhân nhà khoa học và đại học.
Tôi rất đồng ý với bác BTL về nhận định “Ai đã thực sự làm khoa học, và đã từng tham gia các hội đồng khoa học thẩm định các công trình nghiên cứu, hẳn biết rằng có nhà khoa học chỉ công bố vài công trình mà đã nổi trội, trong khi có người rặn ra cả trăm ấn phẩm trên tập san mà chẳng mấy ai chú ý.” Nhưng thế nào là “chẳng mấy ai chú ý”? Nếu tập san chẳng có ai chú ý, tức là tập san đó có ít người đọc; và nếu có ít người đọc thì có ít trích dẫn (citation); và do đó tập san đó phải có chỉ số ảnh hưởng thấp. Như vậy, hiểu theo câu này của giáo sư thì rõ ràng chỉ số ảnh hưởng đóng phần quan trọng để đánh giá khả năng và chất lượng nghiên cứu của một nhà khoa học đó chứ!
Thật ra, chỉ số ảnh hưởng chủ yếu phản ảnh chất lượng của tập san, chứ chưa chắc phản ảnh chất lượng của một bài báo khoa học. Chỉ số khách quan hơn phản ảnh chất lượng của một công trình khoa học là số lần các nhà khoa học khác trích dẫn công trình mà nhà khoa học đã công bố. Số lần trích dẫn mới chính là thước đo chất lượng của bài báo.
Khác với bác BTL, tôi biết rằng cách đánh giá chất lượng tập san qua chỉ số ảnh hưởng rất phổ biến trong nghiên cứu khoa học. Ban biên tập các tập san khoa học lúc nào cũng để ý đến chỉ số này hàng năm để biết tập san mình đang lên hay xuống. Sự sống còn của tập san một phần tùy thuộc vào chỉ số ảnh hưởng. Các cơ quan tài trợ nghiên cứu dựa vào chỉ số ảnh hưởng để phân chia tài trợ cho các nhóm nghiên cứu. Hàng năm, tôi phải nộp nhiều đơn xin tài trợ, và các hội đồng bình duyệt đều để ý đến (có nơi còn tính toán thống kê) các chỉ số ảnh hưởng và số lần trích dẫn các bài báo của tôi để so sánh và quyết định có nên tài trợ nghiên cứu hay không. Thật ra, các chỉ tiêu này được công bố rõ ràng, chứ chẳng dấu diếm gì cả, và đó là “luật chơi” mà bất cứ nhà nghiên cứu khoa học nào cũng phải chấp nhận (nếu muốn “tồn tại” trong hệ thống đó).
Bác BTL nói “đó là nói cho tổng thể của một nước, chứ không phải là nói cho một nhà khoa học riêng lẻ.” thì tôi e rằng ... sai. Người ta đánh giá tình trạng khoa học của một nước qua nhiều chỉ số; trong các chỉ số đó, tập san khoa học và số bài báo khoa học chỉ là một yếu tố nhỏ. Nhưng đối với cá nhân nhà khoa học, chỉ số ảnh hưởng của tập san mà nhà khoa học công bố rất quan trọng. Nếu hai nhà khoa học cùng làm trong một lĩnh vực đệ đơn xin chức danh giáo sư, người ta chắc chắn sẽ chọn người công bố những bài báo trên các tập san có chỉ số ảnh hưởng cao. Hầu như bất cứ hội đồng xem xét đề bạt chức danh giáo sư nào ở Mĩ, Canada, Anh, hay các nước Tây phương và ngay cả tại các nước Á châu cũng đều xem xét đến tập san và chỉ số trích dẫn (citation index) mà nhà khoa học từng công bố để đánh giá năng suất và khả năng khoa học của cá nhân nhà khoa học.
Ở một đoạn khác, bác BTL viết: “Nếu nghiên cứu có kết quả, thì tại sao không "thử" gửi đăng trên tập san quốc tế ? Đó cũng là một cách được thẩm định độc lập. Tuy nhiên, tôi cũng muốn lưu ý là việc gửi bài đăng trên một tập san quốc tế cũng có cái phức tạp của nó : có những « thẩm định viên » tập san quốc tế thẩm định sai, hiểu nhầm, làm cho tác giả bài báo phải cãi, nêu ra sự sai, và yêu cầu thẩm định lại, hoặc gửi cho một tập san quốc tế khác. Do đó, thời gian đăng bài trong một tập san quốc tế có giá trị thường đòi hỏi có thời gian. (Ai khẳng định rằng thời gian đăng bài là ngắn, thì hoặc là họ có tay trong (!) hoặc là họ không có kinh nghiệm).”
Tôi phải hỏi tại sao “thử” gửi đăng? Không. Không có chuyện thử ở đây, mà là chuyện nghĩa vụ. Nhà khoa học nhận tiền của nhà nước, của dân, họ có nghĩa vụ phải báo cáo cho cộng đồng biết họ đã làm gì với tài trợ đó, họ đã giúp gì cho xã hội với tài trợ đó. Trong ngành y học, có trường hợp tác giả không công bố kết quả nghiên cứu được xem là vi phạm y đức.
Vấn đề một số chuyên gia bình duyệt hiểu sai, hay ganh tị, hay ém nhẹm đồng nghiệp trong thực tế vẫn xảy ra, nhưng tôi cho rằng vấn đề này tương đối hiếm. Nên nhớ rằng một bài báo thường được 3 chuyên gia thẩm định, dù cho một người cố ý làm sai cũng không thay đổi được hai người kia. Hơn nữa, ban biên tập biết được một bình duyệt viên có ý ém nhẹm hay không, chứ không phải để cho các chuyên gia bình duyệt muốn làm gì thì làm, muốn viết gì thì viết. Đôi khi ban biên tập phải biên tập các phê bình của chuyên gia bình duyệt, và thậm chí “tống cổ” chuyên gia bình duyệt khỏi ban biên tập vì có xu hướng tị hiềm và thiếu khách quan. Tôi từng biết nhiều trường hợp như thế, và có thể khẳng định rằng những tiêu cực trong hệ thống bình duyệt là hiện hữu nhưng hiếm, và không ảnh hưởng gì đến thời gian công bố cả.
Về thời gian đăng báo thì bác BTL lặp lại một phát biểu trước đây trên Vietnamnet: “Một điều kỳ lạ là, đâu đó, có lúc nêu ra tiêu chí kiểu: muốn được bảo vệ luận án tiến sĩ, phải có vài bài báo đã đăng ở "tập san có giá trị" ở nước ngoài, thậm chí còn đòi hỏi người muốn dự thi làm nghiên cứu sinh phải có 2 "công trình khoa học" đã công bố. Hình như tác giả của những chủ trương này không biết rằng thời gian chờ đợi để một bài báo được thẩm định xong và được đăng lên một tập san nghiêm chỉnh có khi mất hàng hai, ba năm hay hơn nữa.”
Tôi phải nói ngay rằng chính tôi là người từng đề nghị rằng nghiên cứu sinh tiến sĩ nên công bố ít nhất là một bài báo khoa học trên các tập san quốc tế trước khi trình luận án. Thật ra, đó chẳng phải là ý kiến gì mới của tôi, mà là qui định của rất nhiều trường đại học trên thế giới. Khi tôi đào tạo nghiên cứu sinh tiến sĩ, tôi đòi hỏi họ -- ngoài các tiêu chuẩn khác -- phải có ít nhất là một bài báo khoa học trước khi soạn luận án. Đó không phải là một qui định "kì lạ" mà rất phổ biến.
Về tiêu chuẩn trước khi bảo vệ một luận án tiến sĩ, tôi nghĩ có nhiều qui định khác nhau giữa các bộ môn khoa học. Nhưng nói chung, trong các ngành khoa học thực nghiệm (và ngay cả một số ngành lí thuyết) có qui định nghiên cứu sinh phải có ít nhất là một, phần lớn là hai, bài báo khoa học mà nghiên cứu sinh đứng tên tác giả đầu trước khi bảo vệ luận án tiến sĩ. Xin lấy một qui định cụ thể từ Đại học Case Western Reserve viết rõ như sau: một tiêu chuẩn tối thiểu là nghiên cứu sinh phải có ít nhất một bài báo khoa học đã được chấp nhận cho công bố trên một tập san khoa học trước khi được cấp bằng tiến sĩ. Thật ra, chẳng riêng gì các đại học ở Mĩ có qui định này, các đại học Á châu (Phi Luật Tân, Hàn Quốc, Trung Quốc, v.v…) cũng có qui định tương tự [2].
Có lẽ trong ngành toán học, thời gian từ lúc gửi bài đến lúc công bố là dài nhất so với các ngành khác. Trong ngành y sinh học và khoa học thực nghiệm nói chung, thời gian từ lúc nộp bài đến công bố chỉ trong vòng 9 đến 12 tháng. Trong thời gian gần đây, các tập san trực tuyến còn nhanh hơn nữa. Trong ngành toán, một thống kê sau đây (“Backlog of Mathematics Research Journals”, đăng tại đây http://ratsaby.info/Resources/backlog.pdf) cho thấy thời gian từ lúc nộp bài đến khi công bố dao động trong khoảng 9 tháng đến 24 tháng (vài tập san tiêu biểu):
Acta Math: 9 tháng
Amer J Math: 16-18 tháng
Ann Math: 14 tháng
Int J Math Math Sci: 9 tháng
J Am Statist Assoc: 21 tháng
J Appl Math: 9 tháng
Math Res Lett: 9 tháng
SIAM J Cont Optim: 24 (electronic 16 tháng)
SIAM J Optim: 20 (electronic 15 tháng)
Điểm qua danh sách dài đó (bạn đọc có thể tải về để xem qua, nếu cần), tôi không thấy có tập san toán nào “ngâm” bài đến 3 năm cả. Tuy nhiên tôi tin rằng trong vài trường hợp cá biệt chắc có, nhưng tính trung bình thì chưa thấy thời gian kéo dài hơn 2 năm. Còn câu “Ai khẳng định rằng thời gian đăng bài là ngắn, thì hoặc là họ có tay trong (!) hoặc là họ không có kinh nghiệm)” thì tôi không có gì để bàn thêm sau khi điểm qua các con số thống kê trên.
Trong nỗ lực nâng cao chất lượng khoa học, giới quản lí ở trong nước cần nhiều cố vấn từ các chuyên gia nước ngoài, nhưng cần phải phân biệt những ý kiến cá nhân với những thông tin thực tế khách quan. Những ai từng theo dõi tình hình giáo dục trong nước đều phải khâm phục sự kiên trì đóng góp ý kiến của giáo sư Bùi Trọng Liễu, những ý kiến thiết tưởng rất đáng được trân trọng và nghiên cứu để thực hiện. Những thông tin bên lề tôi trình bày trên đây hi vọng làm sáng tỏ thêm, chứ không làm giảm giá trị, những ý kiến của giáo sư Bùi Trọng Liễu.
Chú thích:
[1] Nguyên văn: “Vẫn về vấn đề người, cách đánh giá các công trình khoa học theo số liệu, chấm điểm, ngay cả khi xếp hạng theo « chuẩn » các tập san quốc tế cũng chỉ là tương đối, vv. không phải là cách tiến hành thông thường mà tôi được biết. Đã đành là cần thiết có một số tiêu chuẩn cụ thể tương đối khách quan để đánh giá, nhưng đó là nói cho tổng thể của một nước, chứ không phải là nói cho một nhà khoa học riêng lẻ.” (Phần in đậm là tôi nhấn mạnh).
[2] Chẳng hạn như Đại học Lund (Thụy Điển), Khoa kinh tế, viết rõ: "The PhD thesis is usually written as a collection of separate papers together with an introduction. These papers should either have been published in a refereed international journal, or they should have a format that makes them "publishable" (tạm dịch: luận án tiến sĩ thường được soạn thảo như là một tập hợp các bài báo riêng lẻ cùng với phần dẫn nhập. Các bài báo này hoặc đã được công bố trên một tập san quốc tế có bình duyệt, hoặc ở một dạng có thể công bố được.)
Đại học Công nghệ Queensland (QUT) viết : Yêu cầu cơ bản cho một luận án tiến sĩ là nghiên cứu sinh phải có tối thiểu 3 bài báo khoa học, trong số này, tối thiểu 1 bài d0ã được công bố hay chấp nhận cho công bố hay đang biên tập trước khi công bố.
Đại học y khoa Albert Einstein (Albert Einstein College of Medicine) còn qui định cụ thể hơn : nghiên cứu sinh phải công bố ít nhất một bài báo khoa học đứng tên tác giả đầu, hoặc nếu chưa có, thì phải có kèm theo bản thảo của bài báo trong luận án và phải ghi rõ bài báo đang ở trong tình trạng nào (đã nộp cho tập san nào, hay còn trong vòng biên tập).
Đại học Penn State, Bộ môn sinh hóa và sinh học phân tử, có qui định rằng nghiên cứu sinh cần có ít nhất là một bài báo khoa học đã được chấp nhận cho công bố trên một tập san khoa học quốc tế có bình duyệt trước khi bảo vệ luận án.
Taiwan International Graduate Program (Đài Loan), Đại học Khoa học và Công nghệ (Pakistan), Đại học Chicago (Bộ môn vật lí), Đại học Vanderbilt (Bộ môn sinh vật lí), Đại học Oklahama (Bộ môn khoa học máy tính), Đại học Washington (Bộ môn vi sinh học), v.v… (không thể kể hết ra đây) cũng có một qui định tương tự.
Bàn về tiêu chuẩn đào tạo tiến sĩ
Wednesday, October 10, 2007
Bàn về tiêu chuẩn đào tạo tiến sĩ
http://tuanvannguyen.blogspot.com/2007/10/bn-v-tiu-chun-o-to-tin-s.html
Báo mạng Diễn Đàn (http://www.diendan.org/viet-nam/toan-bo-mot-bai-phong-van/) mới đây đăng nguyên văn bài trả lời phỏng vấn của giáo sư Bùi Trọng Liễu về các vấn đề giáo dục và nghiên cứu khoa học. Bài phỏng vấn tương đối dài, và nhiều điều giáo sư cũng đã phát biểu vài lần trước đây (như vấn nạn tiến sĩ giấy, viện sĩ dỏm, tổ chức đại học, cách đề bạt chức danh giáo sư, v.v…) và ở trong nước người ta cũng nói nhiều trong thời gian gần đây. Có lẽ chính vì thế mà báo Tia Sáng cắt bỏ một số đoạn và làm cho giáo sư phật lòng. Thế là tờ báo mạng đăng nguyên bài. Kể ra vậy cũng hay, báo mạng có lợi thế là có thể đăng bất cứ bài nào, bất kể dài cỡ nào, và như thế cho người đọc một nội dung đầy đủ hơn.
Đọc qua bài phỏng vấn giáo sư Bùi Trọng Liễu tôi thấy rất đồng tình với giáo sư về nhiều vấn đề (nhất là đề nghị xây dựng đại học mới dựa vào Viện khoa học và công nghệ hiện nay), nhưng tôi cũng thấy có vài ý kiến ông phát biểu cần bàn lại, vì không đúng với thực tế hay có thể sai. Ở đây, tôi chỉ xoay quanh ba vấn đề chính: đó là ý nghĩa của “postdoc”, vấn đề đánh giá tập san nghiên cứu khoa học, và thời gian công bố ấn phẩm khoa học.
"Postdoc" là gì? Xin nói ngay rằng, tôi từng là một postdoc trong đầu thập niên 1990s, nên tôi có kinh nghiệm thực tế, và nay nhìn lại quãng đời mình cũng có thể biết đôi ba điều về ý nghĩa của postdoc. QUay lại ý kiến của bác BTL: khi bàn đến những hiểu sai mà giáo sư nói là ở trong nước người ta dịch postdoc thành “siêu tiến sĩ”, bác Liễu cho rằng postdoc là “chỉ là vị trí công việc tạm thời (học bổng, hợp đồng lâm thời) cho những tiến sĩ chưa tìm được việc làm trong chính ngạch, vv.” Có 2 vấn đề: thứ nhất, theo dõi báo chí trong nước hàng ngày trong suốt 15 năm qua tôi chưa bao giờ thấy ai sử dùng cụm từ “siêu tiến sĩ” cả; thứ hai, trong thực tế, postdoc không phải là những người chưa tìm được việc “chính ngạch”, mà là những người còn trong giai đoạn thực tập nghiên cứu, và những người này sử dụng thời gian làm postdoc để quyết định theo đuổi sự nghiệp khoa bảng, hay cơ hội tự khẳng định hướng nghiên cứu riêng của mình, và phấn đấu để trở thành một nhà nghiên cứu độc lập. Đó chính là mục tiêu của chương trình postdoc, và cũng chính vì thế mà ở Mĩ người gọi là “postdoc fellowship”.
Trong các bộ môn khoa học thực nghiệm, có không ít người phải tiêu ra cả 5 năm trời làm nghiên cứu postdoc (hậu tiến sĩ) để có thể tự khẳng định mình và chuẩn bị cho một sự nghiệp nghiên cứu khoa học độc lập. Xin làm postdoc cũng rất khó khăn, chứ không đơn giản xong tiến sĩ là có ngay một vị trí postdoc. Ở nhiều trường lớn bên Mĩ, có hàng trăm (có khi cả ngàn) tiến sĩ xin chỉ một postdoc!
Chỉ có khoảng phân nửa tiến sĩ chọn con đường tiến sĩ à hậu tiến sĩ à giáo sư, và trong số này chỉ có một phần ba là tiến tới thang bậc giáo sư. Phân nửa thì quyết định tham gia nghiên cứu trong các công ti kĩ nghệ hay chính phủ mà không qua huấn luyện postdoc. Một số ngành có nhu cầu cao, tiến sĩ không cần phải qua giai đoạn postdoc để có thể trở thành giáo sư.
Bàn về cách thẩm định năng suất một nhà khoa học, bác BTL phát biểu rằng cách đánh giá công trình khoa học hay chất lượng tạp san khoa học theo các phương pháp định lượng chỉ là tương đối và chỉ áp dụng cho “tổng thể của một nước”, chứ không phải cho một nhà khoa học riêng lẻ [1]. Ở một đoạn khác, bác viết: “Mặt khác cũng không nên ám ảnh bởi bảng xếp hạng cao thấp của các tập san quốc tế, nó cũng tương đối như bảng xếp hạng các trường đại học […] ”. Xin phép không đồng ý với nhận định trên và tôi sẽ giải thích tại sao.
Cách xếp hạng các tập san khoa học quốc tế hiện nay chủ yếu dựa vào chỉ số ảnh hưởng (impact factor) mà tôi đã bàn cụ thể trước đây trên Tia Sáng và Tạp chí Hoạt động Khoa học. Đúng là cách xếp hạng này chỉ mang tính tương đối, và ngay cả phương pháp xếp hạng cũng không hẳn hoàn chỉnh, còn có nhiều vấn đề, nhưng trong thực tế không có cách nào tốt hơn là đánh giá chất lượng một tập san qua chỉ số ảnh hưởng, vì chỉ số này nó nói lên được uy tín và chất lượng của một tập san. Đã có hàng trăm phê phán về chỉ số này, nhưng người ta vẫn chưa tìm ra một chỉ số nào tốt hơn. Hơn nữa, đã có hàng chục nghiên cứu cho thấy chỉ số ảnh hưởng quả thật phản ảnh chất lượng của tập san.
Khiếm khuyết của cách xếp hạng là một vấn đề, nhưng không thể dựa vào khiếm khuyết này mà không xếp hạng gì cả. Chẳng lẽ vì tính tương đối mà xem các tập san có giá trị như nhau? Chẳng lẽ vì tính tương đối mà xem tập san Bulletin of the American Mathematical Society, Annals of Mathematics hay Acta Mathematica tương đương với các tập san như Acta Mathematica Scientia, Russian Academy of Scines Sbornik Mathematics hay Journal of Global Optimization? Tương tự, cũng không thể so sánh một tập san như Medical Journal of Australia với Journal of the American Medical Association (JAMA) được, vì uy tín và tầm ảnh hưởng của hai tập san này rất khác nhau. Do đó, chỉ số ảnh hưởng của tập san rất cần thiết để các nhà quản lí khoa học đánh giá năng suất khoa học của cá nhân nhà khoa học và đại học.
Tôi rất đồng ý với bác BTL về nhận định “Ai đã thực sự làm khoa học, và đã từng tham gia các hội đồng khoa học thẩm định các công trình nghiên cứu, hẳn biết rằng có nhà khoa học chỉ công bố vài công trình mà đã nổi trội, trong khi có người rặn ra cả trăm ấn phẩm trên tập san mà chẳng mấy ai chú ý.” Nhưng thế nào là “chẳng mấy ai chú ý”? Nếu tập san chẳng có ai chú ý, tức là tập san đó có ít người đọc; và nếu có ít người đọc thì có ít trích dẫn (citation); và do đó tập san đó phải có chỉ số ảnh hưởng thấp. Như vậy, hiểu theo câu này của giáo sư thì rõ ràng chỉ số ảnh hưởng đóng phần quan trọng để đánh giá khả năng và chất lượng nghiên cứu của một nhà khoa học đó chứ!
Thật ra, chỉ số ảnh hưởng chủ yếu phản ảnh chất lượng của tập san, chứ chưa chắc phản ảnh chất lượng của một bài báo khoa học. Chỉ số khách quan hơn phản ảnh chất lượng của một công trình khoa học là số lần các nhà khoa học khác trích dẫn công trình mà nhà khoa học đã công bố. Số lần trích dẫn mới chính là thước đo chất lượng của bài báo.
Khác với bác BTL, tôi biết rằng cách đánh giá chất lượng tập san qua chỉ số ảnh hưởng rất phổ biến trong nghiên cứu khoa học. Ban biên tập các tập san khoa học lúc nào cũng để ý đến chỉ số này hàng năm để biết tập san mình đang lên hay xuống. Sự sống còn của tập san một phần tùy thuộc vào chỉ số ảnh hưởng. Các cơ quan tài trợ nghiên cứu dựa vào chỉ số ảnh hưởng để phân chia tài trợ cho các nhóm nghiên cứu. Hàng năm, tôi phải nộp nhiều đơn xin tài trợ, và các hội đồng bình duyệt đều để ý đến (có nơi còn tính toán thống kê) các chỉ số ảnh hưởng và số lần trích dẫn các bài báo của tôi để so sánh và quyết định có nên tài trợ nghiên cứu hay không. Thật ra, các chỉ tiêu này được công bố rõ ràng, chứ chẳng dấu diếm gì cả, và đó là “luật chơi” mà bất cứ nhà nghiên cứu khoa học nào cũng phải chấp nhận (nếu muốn “tồn tại” trong hệ thống đó).
Bác BTL nói “đó là nói cho tổng thể của một nước, chứ không phải là nói cho một nhà khoa học riêng lẻ.” thì tôi e rằng ... sai. Người ta đánh giá tình trạng khoa học của một nước qua nhiều chỉ số; trong các chỉ số đó, tập san khoa học và số bài báo khoa học chỉ là một yếu tố nhỏ. Nhưng đối với cá nhân nhà khoa học, chỉ số ảnh hưởng của tập san mà nhà khoa học công bố rất quan trọng. Nếu hai nhà khoa học cùng làm trong một lĩnh vực đệ đơn xin chức danh giáo sư, người ta chắc chắn sẽ chọn người công bố những bài báo trên các tập san có chỉ số ảnh hưởng cao. Hầu như bất cứ hội đồng xem xét đề bạt chức danh giáo sư nào ở Mĩ, Canada, Anh, hay các nước Tây phương và ngay cả tại các nước Á châu cũng đều xem xét đến tập san và chỉ số trích dẫn (citation index) mà nhà khoa học từng công bố để đánh giá năng suất và khả năng khoa học của cá nhân nhà khoa học.
Ở một đoạn khác, bác BTL viết: “Nếu nghiên cứu có kết quả, thì tại sao không "thử" gửi đăng trên tập san quốc tế ? Đó cũng là một cách được thẩm định độc lập. Tuy nhiên, tôi cũng muốn lưu ý là việc gửi bài đăng trên một tập san quốc tế cũng có cái phức tạp của nó : có những « thẩm định viên » tập san quốc tế thẩm định sai, hiểu nhầm, làm cho tác giả bài báo phải cãi, nêu ra sự sai, và yêu cầu thẩm định lại, hoặc gửi cho một tập san quốc tế khác. Do đó, thời gian đăng bài trong một tập san quốc tế có giá trị thường đòi hỏi có thời gian. (Ai khẳng định rằng thời gian đăng bài là ngắn, thì hoặc là họ có tay trong (!) hoặc là họ không có kinh nghiệm).”
Tôi phải hỏi tại sao “thử” gửi đăng? Không. Không có chuyện thử ở đây, mà là chuyện nghĩa vụ. Nhà khoa học nhận tiền của nhà nước, của dân, họ có nghĩa vụ phải báo cáo cho cộng đồng biết họ đã làm gì với tài trợ đó, họ đã giúp gì cho xã hội với tài trợ đó. Trong ngành y học, có trường hợp tác giả không công bố kết quả nghiên cứu được xem là vi phạm y đức.
Vấn đề một số chuyên gia bình duyệt hiểu sai, hay ganh tị, hay ém nhẹm đồng nghiệp trong thực tế vẫn xảy ra, nhưng tôi cho rằng vấn đề này tương đối hiếm. Nên nhớ rằng một bài báo thường được 3 chuyên gia thẩm định, dù cho một người cố ý làm sai cũng không thay đổi được hai người kia. Hơn nữa, ban biên tập biết được một bình duyệt viên có ý ém nhẹm hay không, chứ không phải để cho các chuyên gia bình duyệt muốn làm gì thì làm, muốn viết gì thì viết. Đôi khi ban biên tập phải biên tập các phê bình của chuyên gia bình duyệt, và thậm chí “tống cổ” chuyên gia bình duyệt khỏi ban biên tập vì có xu hướng tị hiềm và thiếu khách quan. Tôi từng biết nhiều trường hợp như thế, và có thể khẳng định rằng những tiêu cực trong hệ thống bình duyệt là hiện hữu nhưng hiếm, và không ảnh hưởng gì đến thời gian công bố cả.
Về thời gian đăng báo thì bác BTL lặp lại một phát biểu trước đây trên Vietnamnet: “Một điều kỳ lạ là, đâu đó, có lúc nêu ra tiêu chí kiểu: muốn được bảo vệ luận án tiến sĩ, phải có vài bài báo đã đăng ở "tập san có giá trị" ở nước ngoài, thậm chí còn đòi hỏi người muốn dự thi làm nghiên cứu sinh phải có 2 "công trình khoa học" đã công bố. Hình như tác giả của những chủ trương này không biết rằng thời gian chờ đợi để một bài báo được thẩm định xong và được đăng lên một tập san nghiêm chỉnh có khi mất hàng hai, ba năm hay hơn nữa.”
Tôi phải nói ngay rằng chính tôi là người từng đề nghị rằng nghiên cứu sinh tiến sĩ nên công bố ít nhất là một bài báo khoa học trên các tập san quốc tế trước khi trình luận án. Thật ra, đó chẳng phải là ý kiến gì mới của tôi, mà là qui định của rất nhiều trường đại học trên thế giới. Khi tôi đào tạo nghiên cứu sinh tiến sĩ, tôi đòi hỏi họ -- ngoài các tiêu chuẩn khác -- phải có ít nhất là một bài báo khoa học trước khi soạn luận án. Đó không phải là một qui định "kì lạ" mà rất phổ biến.
Về tiêu chuẩn trước khi bảo vệ một luận án tiến sĩ, tôi nghĩ có nhiều qui định khác nhau giữa các bộ môn khoa học. Nhưng nói chung, trong các ngành khoa học thực nghiệm (và ngay cả một số ngành lí thuyết) có qui định nghiên cứu sinh phải có ít nhất là một, phần lớn là hai, bài báo khoa học mà nghiên cứu sinh đứng tên tác giả đầu trước khi bảo vệ luận án tiến sĩ. Xin lấy một qui định cụ thể từ Đại học Case Western Reserve viết rõ như sau: một tiêu chuẩn tối thiểu là nghiên cứu sinh phải có ít nhất một bài báo khoa học đã được chấp nhận cho công bố trên một tập san khoa học trước khi được cấp bằng tiến sĩ. Thật ra, chẳng riêng gì các đại học ở Mĩ có qui định này, các đại học Á châu (Phi Luật Tân, Hàn Quốc, Trung Quốc, v.v…) cũng có qui định tương tự [2].
Có lẽ trong ngành toán học, thời gian từ lúc gửi bài đến lúc công bố là dài nhất so với các ngành khác. Trong ngành y sinh học và khoa học thực nghiệm nói chung, thời gian từ lúc nộp bài đến công bố chỉ trong vòng 9 đến 12 tháng. Trong thời gian gần đây, các tập san trực tuyến còn nhanh hơn nữa. Trong ngành toán, một thống kê sau đây (“Backlog of Mathematics Research Journals”, đăng tại đây http://ratsaby.info/Resources/backlog.pdf) cho thấy thời gian từ lúc nộp bài đến khi công bố dao động trong khoảng 9 tháng đến 24 tháng (vài tập san tiêu biểu):
Acta Math: 9 tháng
Amer J Math: 16-18 tháng
Ann Math: 14 tháng
Int J Math Math Sci: 9 tháng
J Am Statist Assoc: 21 tháng
J Appl Math: 9 tháng
Math Res Lett: 9 tháng
SIAM J Cont Optim: 24 (electronic 16 tháng)
SIAM J Optim: 20 (electronic 15 tháng)
Điểm qua danh sách dài đó (bạn đọc có thể tải về để xem qua, nếu cần), tôi không thấy có tập san toán nào “ngâm” bài đến 3 năm cả. Tuy nhiên tôi tin rằng trong vài trường hợp cá biệt chắc có, nhưng tính trung bình thì chưa thấy thời gian kéo dài hơn 2 năm. Còn câu “Ai khẳng định rằng thời gian đăng bài là ngắn, thì hoặc là họ có tay trong (!) hoặc là họ không có kinh nghiệm)” thì tôi không có gì để bàn thêm sau khi điểm qua các con số thống kê trên.
Trong nỗ lực nâng cao chất lượng khoa học, giới quản lí ở trong nước cần nhiều cố vấn từ các chuyên gia nước ngoài, nhưng cần phải phân biệt những ý kiến cá nhân với những thông tin thực tế khách quan. Những ai từng theo dõi tình hình giáo dục trong nước đều phải khâm phục sự kiên trì đóng góp ý kiến của giáo sư Bùi Trọng Liễu, những ý kiến thiết tưởng rất đáng được trân trọng và nghiên cứu để thực hiện. Những thông tin bên lề tôi trình bày trên đây hi vọng làm sáng tỏ thêm, chứ không làm giảm giá trị, những ý kiến của giáo sư Bùi Trọng Liễu.
Chú thích:
[1] Nguyên văn: “Vẫn về vấn đề người, cách đánh giá các công trình khoa học theo số liệu, chấm điểm, ngay cả khi xếp hạng theo « chuẩn » các tập san quốc tế cũng chỉ là tương đối, vv. không phải là cách tiến hành thông thường mà tôi được biết. Đã đành là cần thiết có một số tiêu chuẩn cụ thể tương đối khách quan để đánh giá, nhưng đó là nói cho tổng thể của một nước, chứ không phải là nói cho một nhà khoa học riêng lẻ.” (Phần in đậm là tôi nhấn mạnh).
[2] Chẳng hạn như Đại học Lund (Thụy Điển), Khoa kinh tế, viết rõ: "The PhD thesis is usually written as a collection of separate papers together with an introduction. These papers should either have been published in a refereed international journal, or they should have a format that makes them "publishable" (tạm dịch: luận án tiến sĩ thường được soạn thảo như là một tập hợp các bài báo riêng lẻ cùng với phần dẫn nhập. Các bài báo này hoặc đã được công bố trên một tập san quốc tế có bình duyệt, hoặc ở một dạng có thể công bố được.)
Đại học Công nghệ Queensland (QUT) viết : Yêu cầu cơ bản cho một luận án tiến sĩ là nghiên cứu sinh phải có tối thiểu 3 bài báo khoa học, trong số này, tối thiểu 1 bài d0ã được công bố hay chấp nhận cho công bố hay đang biên tập trước khi công bố.
Đại học y khoa Albert Einstein (Albert Einstein College of Medicine) còn qui định cụ thể hơn : nghiên cứu sinh phải công bố ít nhất một bài báo khoa học đứng tên tác giả đầu, hoặc nếu chưa có, thì phải có kèm theo bản thảo của bài báo trong luận án và phải ghi rõ bài báo đang ở trong tình trạng nào (đã nộp cho tập san nào, hay còn trong vòng biên tập).
Đại học Penn State, Bộ môn sinh hóa và sinh học phân tử, có qui định rằng nghiên cứu sinh cần có ít nhất là một bài báo khoa học đã được chấp nhận cho công bố trên một tập san khoa học quốc tế có bình duyệt trước khi bảo vệ luận án.
Taiwan International Graduate Program (Đài Loan), Đại học Khoa học và Công nghệ (Pakistan), Đại học Chicago (Bộ môn vật lí), Đại học Vanderbilt (Bộ môn sinh vật lí), Đại học Oklahama (Bộ môn khoa học máy tính), Đại học Washington (Bộ môn vi sinh học), v.v… (không thể kể hết ra đây) cũng có một qui định tương tự.